Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp sử dụng sơ đồ tư duy nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và phát triển năng lực tự học cho học sinh lớp 5

pdf 28 trang Tú Uyên 12/02/2025 670
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp sử dụng sơ đồ tư duy nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và phát triển năng lực tự học cho học sinh lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_giai_phap_su_dung_so_do_tu_duy.pdf

Nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp sử dụng sơ đồ tư duy nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và phát triển năng lực tự học cho học sinh lớp 5

  1. “Một số giải pháp sử dụng sơ đồ tư duy nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và phát triển năng lực tự học cho học sinh lớp 5” BÁO CÁO SÁNG KIẾN I. ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN Hiện nay, ngành Giáo dục đang triển khai thực hiện về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo; vai trò của người giáo viên vô cùng quan trọng, có tính quyết định. Do đó, đòi hỏi người giáo viên không chỉ nắm vững kiến thức và phương pháp dạy học hiện đại mà phải biết vận dụng các phương pháp thích hợp để tổ chức dạy học cho từng nội dung kiến thức cụ thể. Có như vậy với kích thích được sự say mê, hứng thú học tập, sáng tạo của học sinh, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, đáp ứng yêu cầu mới của đất nước. Thực tế, không có phương pháp dạy học nào là vạn năng. Việc tìm kiếm và vận dụng các phương pháp tiên tiến vào quá trình dạy học các môn học ở Tiểu học nói chung và các môn học ơ lớp 5 nói riêng là vấn đề quan trọng nhằm hình thành cho học sinh phương pháp học tập độc lập, sáng tạo; qua đó nâng cao chất lượng dạy học. Việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và phát triển năng lực tự học thể hiện qua 4 đặc trưng cơ bản: Một là giáo viên là người tổ chức và chỉ đạo, học sinh tự khám phá, tìm tòi và lĩnh hội kiến thức. Hai là giáo viên định hướng cho học sinh cách tư duy như phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, học sinh khai thác các tài liệu học tập, tìm lại kiến thức đã có để phát triển tiềm năng sáng tạo. Ba là tổ chức phối hợp học tập cá thể với học tập hợp tác, lớp học trở thành môi trường giao tiếp của Giáo viên - Học sinh và Học sinh - Học sinh. Học sinh lĩnh hội kiến thức từ các hoạt động giáo viên đã tổ chức và cũng có thể lĩnh hội kiến thức từ
  2. thống câu hỏi, bài tập; chú trọng phát triển kĩ năng tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau. Từ đó học sinh hình thành và phát huy những năng lực, phẩm chất cơ bản. Xuất phát từ những đặc trưng cơ bản đó, tôi nhận thấy một trong những phương pháp có ưu điểm đáp ứng được mục tiêu yêu cầu đổi mới và vận dụng tốt vào quá trình dạy học ở Tiểu học hiện nay đó là “ Sơ đồ tư duy”. Sơ đồ tư duy giúp giáo viên đổi mới công tác quản lí, đổi mới phương pháp dạy học đạt hiệu quả. Từ đó, người giáo viên có thể tự tin hơn trong quá trình giảng dạy làm cho tiết học trở lên nhẹ nhàng, sôi động, hiệu quả và đặc biệt là không đơn điệu, nhàm chán. Còn về phía học sinh, khi sử dụng sơ đồ tư duy các em sẽ biết cách học và tự học một cách có chủ đích. Các em không học vẹt một cách máy móc mà ngược lại sẽ nhớ nhanh, nhớ lâu, hiểu sâu kiến thức trọng tâm cơ bản, biết liên tưởng, liên kết thành một hệ thống các kiến thức có liên quan với nhau. Đặc biệt, các em có thể thuộc bài ngay tại lớp, tập trung được sức mạnh tập thể, tự tin và sáng tạo hơn. “Sơ đồ tư duy” là công cụ hữu ích trong giảng dạy và học tập giúp giáo viên và học sinh trong việc trình bày các ý tưởng, tóm tắt, hệ thống hóa các kiến thức của một bài, một chủ đề một cách rõ ràng, mạch lạc, lôgic. Đặc biệt là lớp 5 – giai đoạn mà nhu cầu nhận thức và khám phá của các em rất phong phú trong tất cả các lĩnh vực và các môn học. Các phân môn đã bắt đầu hình thành khái niệm quy tắc ngữ pháp, tư duy lôgic. Ví dụ như phân môn Lịch sử &Địa lí ngoài việc hình thành cho học sinh một số kĩ năng cơ bản còn bắt đầu cung cấp cho học sinh một số kiến thức như nhân vật, sự kiện lịch sử; mối quan hệ giữa các vùng miền, giữa thiên nhiên và con người. Các môn học khác như Toán, Khoa học, Tiếng Việt, Tiếng Anh, Mĩ thuật, Tin học, cũng có thể sử dụng sơ đồ tư duy. Lượng kiến thức ấy không phải là ít và dễ dàng tiếp nhận, ghi nhớ. Hơn nữa, học sinh tiểu học còn thích được vẽ, thích tưởng tượng, vừa học vừa chơi. Chính vì vậy, ứng dụng sơ đồ tư duy vào dạy học cho học sinh lớp 5 góp phần giúp các em biết cách tiếp nhận thông tin, ghi chú, ôn luyện hiệu quả mà vẫn không cảm thấy quá tải, vẫn hứng thú với các môn học.
  3. tạo và năng lực tự học của học sinh. Tôi chỉ cần bảng và hộp phấn nhiều màu, học sinh chỉ cần tờ giấy trắng và hộp bút nhiều màu. Bất kể môn học nào tôi cũng có thể ứng dụng sơ đồ tư duy và yêu cầu học sinh làm việc cá nhân hoặc theo nhóm. Xuất phát từ những lí do trên, tôi xin chia sẻ: “Một số giải pháp sử dụng sơ đồ tư duy nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và phát triển năng lực tự học cho học sinh lớp 5” tại trường Tiểu học Hải Long, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP 1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến : Thực trạng khi dạy và học các môn học cho học sinh tiểu học cũng như học sinh lớp 5 nói chung và học sinh lớp 5B nói riêng của trường Tiểu học Hải Long tôi nhận thấy: * Đối với giáo viên: Qua quá trình thăm lớp, dự giờ khảo sát trước tác động, tôi nhận thấy thực trạng việc áp dụng “Sơ đồ tư duy” trong dạy học của giáo viên trong thời gian qua còn gặp nhiều khó khăn. Các phương pháp truyền thống như: dùng trực quan, giảng giải, vấn đáp, vẫn chiếm ưu thế. Thực tế hiệu quả của việc giảng dạy kiến thức các môn học cho học sinh vẫn chưa cao. Khi dạy cho học sinh, giáo viên vẫn là người hoạt động chủ yếu, học sinh vẫn chưa phát huy được tính tích cực, chủ động và năng lực tự học. Vì thế, mỗi tiết học trở nên khô khan, nặng nề. Giáo viên đã nhận thức tầm quan trọng của nội dung kiến thức cần nắm vững song việc sử dụng các biện pháp dạy chưa phù hợp, chưa thu hút được sự tập trung của học sinh nên hiệu quả mang lại chưa cao. Trong việc đánh giá học sinh, giáo viên cũng đã chủ động nắm bắt được nội dung và phương pháp dạy học mới. Trong các hoạt động học tập của học sinh ở các tiết dạy học trên lớp, giáo viên đã chú ý lấy học sinh làm trung tâm, tích cực. Tuy nhiên, khi thiết kế bài dạy cũng như khi giảng dạy trên lớp nhiều khi giáo viên chưa chủ động thiết kế và dạy theo đối tượng học sinh của mình mà phụ thuộc nhiều vào tài liệu hướng dẫn. Hoặc nếu có chú ý thì giáo viên cũng mới chỉ tập trung vào việc hình
  4. dàng khai thác và phát triển các bài tập nhằm bồi dưỡng, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và năng lực tự học cho học sinh. Nhiều khi giáo viên chưa thực sự nghiên cứu, tìm tòi, khai thác và vận dụng để có sự cải tiến, sáng tạo trong cách dạy, hướng dẫn bài tập một cách thụ động nên các em học sinh có khả năng vượt trội sẽ khó thể hiện được năng lực tư duy. Sáng tạo của mình. Giáo viên nắm chưa vững phương pháp mới do thời gian tập huấn ở cơ sở cũng như tự nghiên cứu tài liệu còn hạn chế. Chính vì vậy mà không ít giáo viên “ngại” áp dụng hoặc áp dụng nhưng không thường xuyên và hiệu quả không cao Trong quá trình tìm hiểu, dự giờ, trao đổi rút kinh nghiệm của đồng nghiệp cũng như nghiên cứu nội dung chương trình, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học các môn học cho học sinh lớp 5 ở trường Tiểu học Hải Long tôi thấy những điều nói trên là sát thực. * Đối với học sinh: Đối với trường Tiểu học Hải Long nói chung và lớp 5B của tôi nói riêng số học sinh tích cực, tự giác chưa cao. Học sinh học tập còn thụ động, tư duy đi vào lối mòn, không kích thích được sự phát triển trí não. Điều đó làm cho một số học sinh tuy rất chăm học nhưng sự tiếp thu vẫn rất ít vì không biết liên kết kiến thức với nhau, không biết vận dụng những kiến thức đã học trước đó vào phần sau. Phần lớn số học sinh này khi đọc sách hay nghe giảng trên lớp chưa biết cách ghi chép để lưu thông tin, lưu kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình. Mặc dù chương trình mới chú trọng tới việc “cá thể hóa hoạt động học tập của học sinh” để bản thân mỗi học sinh sẽ nỗ lực suy nghĩ, tìm tòi, khám phá, tự tìm ra cách giải quyết vấn đề. Song lứa tuổi các em còn bé nên sự tư duy, sáng tạo còn hạn chế. Sử dụng thành thạo sơ đồ tư duy trong dạy học khi đó học sinh sẽ học được phương pháp học, nhớ lâu kiến thức, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy. Rất nhiều kết quả nghiên cứu đã khẳng định bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự
  5. tiềm năng của bộ não. Tuy nhiên, việc lựa chọn sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học các môn học ở Tiểu học nói chung và các môn học ở lớp 5 nói riêng còn hạn chế. Thời gian giảng dạy cho một tiết dạy thường kéo dài hơn do học sinh chưa quen với phương pháp mới Với đặc điểm về nhận thức của từng nhóm đối tượng học sinh, có những em chưa mạnh dạn, năng động, tích cực trong giờ học. Nhiều em còn thụ động trong quá trình tiếp thu bài, các em còn thiếu kĩ năng phân tích, tổng hợp. Các em chưa có thói quen hệ thống lại những gì mà các em học được. Khi tôi đưa ra câu hỏi: “Em có thể nhớ được đủ các cặp quan hệ từ này được bao lâu? ” Học sinh đã trả lời: “Vì em chưa học thuộc nên em không nhớ được đủ hết ạ!” Các em thường không nhớ lâu, hiểu sai bài học. Khi đó, nếu thoát li khỏi quyển sách giáo khoa, các em sẽ rất lúng túng khi nhắc lại nội dung kiến thức bài học hay ôn lại nội dung kiến thức chủ đề. Trong khi đó, đổi mới phương pháp giảng dạy của giáo viên là hướng tới mục tiêu lôi cuốn sự tham gia, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và phát triển năng lực tự học của tất cả các học sinh. Việc sử dụng sơ đồ tư duy đã giải quyết được vấn đề này, giáo viên giúp học sinh có thói quen khi tư duy lôgic theo hình thức sơ đồ hóa; hình thành kĩ năng hiểu - biết - tiếp thu - nhận dạng kiến thức có hệ thống. Năm học 2022 - 2023, qua việc khảo sát 35 học sinh lớp 5B về kĩ năng hệ thống hóa kiến thức bằng sơ đồ tư duy, tôi thu được kết quả như sau: * Về Từ loại phân môn Luyện từ và câu - môn Tiếng Việt Mức độ đạt được Số lượng Tỉ lệ 35 100% Học sinh vẽ được sơ đồ tư 3 8,57 duy đầy đủ, khoa học Học sinh vẽ được sơ đồ tư 18 51,43 duy đơn giản nhưng chưa đầy đủ, chưa khoa học Học sinh chưa vẽ được sơ đồ 14 40 tư duy
  6. * Về Thực hành: Nói “Không!” đối với các chất gây nghiện – môn Khoa học Mức độ đạt được Số lượng Tỉ lệ 35 100% Học sinh vẽ được sơ đồ tư 3 8,57 duy đầy đủ, khoa học Học sinh vẽ được sơ đồ tư 20 57,14 duy đơn giản nhưng chưa đầy đủ, chưa khoa học Học sinh chưa vẽ được sơ đồ 12 34,29 tư duy Số liệu điều tra được ở bảng trên cho thấy học sinh có năng lực vượt trội, có khả năng học tốt sẽ vẽ được sơ đồ tư duy đầy đủ, khoa học ở lớp 5B còn ít. Hầu hết học sinh mới chỉ vẽ được sơ đồ tư duy đơn giản, chưa có hệ thống, chưa tương đồng về mạch kiến thức; vẽ được sơ đồ tư duy nhưng chưa đầy đủ, chưa khoa học vẫn còn chiếm tỉ lệ cao (trên 50%). Bên cạnh đó, số học sinh chưa vẽ được sơ đồ tư duy cũng còn chiếm khác nhiều (khoảng từ 30% đến 40%). Học sinh mới liệt kê được một số kiến thức; liệt kê lộn xộn, không đầy đủ, không lôgic, Từ việc xâu chuỗi để nắm bắt kiến thức của học sinh còn hạn chế kéo theo chất lượng đầu năm học của lớp 5B cũng chưa được khả quan. Cùng với đó, qua thực tế của việc giảng dạy ở trường, quan sát các đối tượng học sinh, tôi thấy kĩ năng ghi chép, chắt lọc kiến thức trọng tâm của học sinh còn hạn chế. Cứ đến tiết thứ 4 của buổi học, không khí của lớp học trầm hẳn xuống, dáng vẻ uể oải, mất tập trung bộc lộ rõ trên khuôn mặt của nhiều học sinh dẫn đến hiệu quả tiết dạy chưa cao, chưa đạt được kết quả mong muốn của giáo viên. Từ những cơ sở nêu trên, tôi thấy việc nghiên cứu áp dụng “Sơ đồ tư duy” vào dạy học là vấn đề hết sức cần thiết. Có như vậy mới hình thành cho học sinh phương pháp học tập đúng đắn, giúp học sinh thực sự trở thành “chủ thể” tìm kiếm
  7. 2.1. Cơ sở lý luận: Sơ đồ tư duy (Mindmap) là phương pháp được đưa ra như là một phương tiện mạnh để tận dụng khả năng ghi nhận hình ảnh của bộ não. Đây là cách để ghi nhớ chi tiết, để tổng hợp, phân tích một vấn đề ra thành một dạng của lược đồ phân nhánh. (phụ lục 1) Sơ đồ tư duy là hình thức ghi chép nhằm tìm tòi, đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến thức bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực. Đây là một sơ đồ mở, không yêu cầu tỉ lệ, chi tiết khắt khe như bản đồ địa lí; có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi người vẽ một kiểu khác nhau, dùng màu sắc, hình ảnh, các cụm từ diễn đạt khác nhau. Sơ đồ tư duy chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các mạng lưới liên tưởng (các nhánh). Có thể vận dụng sơ đồ tư duy vào hỗ trợ dạy học kiến thức mới, củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, ôn tập hệ thống hóa kiến thức sau mỗi chương, mỗi học kì. Sơ đồ tư duy là một công cụ tổ chức tư duy nền tảng, có thể miêu tả nó là một kĩ thuật minh họa với sự kết hợp giữa từ ngữ, hình ảnh, đường nét, màu sắc phù hợp với cấu trúc, hoạt động và chức năng của bộ não. Theo Tony Buzan “một hình ảnh có giá trị hơn cả ngàn từ ” và “màu sắc cũng có tác dụng kích thích não như hình ảnh. Màu sắc mang đến cho sơ đồ tư duy những rung động cộng hưởng, mang lại sức sống và năng lượng vô tận cho tư duy sáng tạo”. Giai đoạn cuối bậc Tiểu học - ở lớp 5, trẻ đã biết phân tích, khái quát, so sánh, từ bên ngoài thành các thao tác trí óc bên trong dựa vào các hành dộng với đối tượng thực. Các em có khả năng đảo ngược các hình ảnh tri giác, khả năng bảo tồn sự vật khi có sự thay đổi các hình ảnh tri giác về chúng. Trên cơ sở đó, sơ đồ tư duy giúp học sinh phát hiện vấn đề một cách dễ dàng và ghi nhớ một cách có hệ thống. Mỗi nhánh nhỏ sẽ tác động đến “nấc thang” nhận thức gần nhất của các em. 2.2. Mục đích của giải pháp: - Tạo cho học sinh sự say mê, hứng thú trong các môn
  8. Các kiến thức trước được ghi nhớ và hỗ trợ các mảng kiến thức sau. Các em biết học những vấn đề trọng tâm, biết liên kết các vấn đề, xâu chuỗi thành một hệ thống kiến thức có liên quan đến nhau. - Giúp giáo viên khắc phục và giải quyết những khó khăn trong công tác giảng dạy, áp dụng những phương pháp tiên tiến hiện đại nâng cao nghiệp vụ sư phạm của bản thân, là cơ sở để trao đổi kinh nghiệm hữu ích với đồng nghiệp. - Sử dụng sơ đồ tư duy kết hợp với các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực khác như vấn đáp gợi mở, thảo luận nhóm, khăn trải bàn, động não, có tính khả thi cao góp phần đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng học tập cho học sinh lớp 5. 2.3. Đối tượng nghiên cứu của giải pháp: - Sơ đồ tư duy trong dạy học các môn học lớp 5 - Học sinh lớp 5 trường Tiểu học Hải Long 2.4. Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình thực hiện giải pháp, tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp nghiên cứu tài liệu - Phương pháp phân tích tổng hợp - Phương pháp nêu vấn đề - Phương pháp thực hành vận dụng - Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin - Phương pháp thốn kê, đối chứng số liệu 2.5. Nội dung công việc cần giải quyết: Để nâng cao hiệu quả dạy học các môn học theo Sơ đồ tư duy, giáo viên cần làm tốt các việc sau: Đầu tiên là cho học sinh làm quen và tập đọc hiểu sơ đồ tư duy. Sau đó là hướng dẫn học sinh vẽ sơ đồ tư duy.
  9. có thể áp dụng Sơ đồ tư duy. Cuối cùng là hướng dẫn học sinh học tập độc lập, sử dụng sơ đồ tư duy để hỗ trợ học tập, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo; phát triển năng lực tự học và phát triển tư duy lôgic cho học sinh. 2.6. Giải pháp thực hiện: Khi sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học các môn học cho học sinh lớp 5 tôi đã nghiên cứu kĩ tài liệu được tập huấn, đọc thêm các tài liệu, truy cập mạng Internet để nắm vững cách soạn giảng và cách hướng dẫn học sinh vẽ sơ đồ tư duy, mạnh dạn áp dụng vào việc xây dựng kế hoạch dạy học và giảng dạy thực tế. Giúp học sinh phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và phát huy năng lực tự học, tư duy lôgic; dễ nhớ và nhớ lâu bài; kích thích hứng thú học tập của các em học sinh lớp 5, tôi đã tiến hành các giải pháp sau: 2.6.1. Cho học sinh làm quen và tập đọc hiểu sơ đồ tư duy. Cho học sinh làm quen và tập đọc hiểu sơ đồ tư duy bằng cách giới thiệu cho học sinh một số sơ đồ tư duy. Tùy vào mức độ của từng học sinh, lớp học mà giáo viên có thể vừa chỉ vào sơ đồ vừa dẫn dắt học sinh như: Từ một vấn đề hay một chủ đề chính đưa ra các ý lớn thứ nhất, ý lớn thứ hai, thứ ba, mỗi ý lớn lại có các ý nhỏ liên quan với nó, mỗi ý nhỏ lại có các ý nhỏ hơn. Các nhánh có thể là đường thẳng hay đường cong. - Muốn hình thành một sơ đồ tư duy đạt hiệu quả, giáo viên cần tiến hành theo các yêu cầu sau: + Bước 1: Giới thiệu cho học sinh các yêu cầu chung về cách “ghi chép” có hiệu quả trên sơ đồ tư duy gồm các nội dung sau: 1 là dùng từ khóa và ý chính 2 là viết cụm từ, không viết thành câu 3 là dùng các từ có thể viết tắt 4 là có tiêu đề 5 là đánh số các ý
  10. 7 là ghi chép nguồn gốc thông tin để có thể tra cứu lại dễ dàng 8 là sử dụng màu sắc để ghi chép + Bước 2: Cho học sinh làm quen với sơ đồ tư duy bằng cách giới thiệu cho học sinh một số sơ đồ tư duy cùng với sự dẫn dắt của giáo viên để các em làm quen. + Bước 3: Tập “đọc hiểu” sơ đồ tư duy sao cho học sinh khi nhìn vào sơ đồ tư duy có thể thuyết trình được nội dung bài học cũng như một chủ đề, một chương theo mạch lôgic của kiến thức. + Bước 4: Cho học sinh thực hành vẽ sơ đồ tư duy trên giấy (Vẽ sơ đồ tư duy theo nhóm hoặc theo từng cá nhân). Ví dụ: Giáo viên hướng dẫn học sinh làm quen và tập đọc hiểu sơ đồ tư duy bài Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập (Lịch sử 5 trang 21) (phụ lục 2) Ở giải pháp này, từ hoạt động hướng dẫn học sinh làm quen và tập đọc hiểu sơ đồ tư duy bên cạnh việc cung cấp nội dung kiến thức được thể hiện ở sơ đồ tư duy sẽ giúp các em phát huy được năng lực tự học; năng lực giao tiếp cơ bản như: kĩ năng lắng nghe, kĩ năng đặt câu hỏi; năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; Qua đó hình thành và phát triển cho học sinh những kiến thức, phẩm chất và kĩ năng cơ bản phục vụ tốt trong quá trình học tập và phát triển bản thân. 2.6.2. Hướng dẫn học sinh vẽ sơ đồ tư duy: Khi hướng dẫn học sinh vẽ sơ đồ tư duy, giáo viên giữ vai trò trung tâm. Việc sử dụng phương pháp vấn đáp, kiểm tra hỏi - đáp hay trình bày trực quan qua hình ảnh phải thu hút được tất cả học sinh tham gia để từ việc làm quen học sinh sẽ được tự thực hành trình bày sơ đồ tư duy trên những phương tiện gợi ý của giáo viên. Khi việc vẽ sơ đồ tư duy trở thành thói quen, học sinh sẽ tự tìm kiếm, khám phá nội dung thông tin. Đối với mỗi sơ đồ tư duy, để hoàn thiện cần thực hiện theo 3 bước cơ bản sau: + Bước 1: Chọn từ trung tâm (từ khóa) hay một hình ảnh, hình vẽ hợp với tên chủ đề (tên chủ đề có thể là tên bài học, tên
  11. các nội dung chính của chủ đề. + Bước 3: Vẽ nhánh cấp 2, 3, và hoàn thiện sơ đồ tư duy – các nhánh cấp 2,3, chính là các ý trong nội dung của nhánh con trước đó. Ví dụ 1: Giáo viên hướng dẫn học sinh vẽ sơ đồ tư duy bài Đất và rừng (Địa lí lớp 5 trang 79) Bước 1: Chọn từ trung tâm “Đất và rừng” Bước 2: Vẽ nhánh cấp 1: gồm 2 nhánh là “Đất” và “Rừng” Bước 3: Vẽ nhánh cấp 2,3 và hoàn thiện sơ đồ tư duy: các nhánh cấp 2,3 chính là các ý: đặc điểm, vai trò, sự phân bố, phân loại trong nội dung của nhánh con trước đó. (phụ lục 3) Ví dụ 2: Giáo viên hướng dẫn học sinh vẽ sơ đồ tư duy bài Nhôm (Khoa học lớp 5 trang 52) Bước 1: Chọn từ trung tâm “Nhôm” Bước 2: Vẽ nhánh cấp 1: có 4 nhánh là “Nguồn gốc”, “tính chất”, “công dụng” và “bảo quản” Bước 3: Vẽ nhánh cấp 2,3 và hoàn thiện sơ đồ tư duy. (phụ lục 4) Ví dụ 3: Giáo viên hướng dẫn học sinh vẽ sơ đồ tư duy bài Cấu tạo bài văn tả cảnh (Tiếng Việt 5 tập 1 trang 11) Bước 1: Chọn từ trung tâm “Cấu tạo của bài văn tả cảnh” Bước 2: Vẽ nhánh cấp 1: có 3 nhánh là “Mở bài”, “Thân bài”, “Kết bài” Bước 3: Vẽ nhánh cấp 2 và hoàn thiện sơ đồ tư duy. (phụ lục 5) Trong giải pháp này, qua quá trình học tập và rèn luyện cũng như qua sản phẩm của học sinh đã làm được tôi thấy: + Học sinh dễ dàng đưa nội dung kiến thức của mình vào trình bày sơ đồ tư duy. + Học sinh rất hứng thú, tích cực tham gia hoạt động.
  12. lời, cùng nhau đưa ra ý tưởng, cùng nhau giải quyết vấn đề, + Năng lực giao tiếp; giải quyết vấn đề và sáng tạo cùng với phẩm chất đoàn kết; chăm học, chăm làm cũng được phát huy tích cực. 2.6.3. Lựa chọn thời điểm sử dụng sơ đồ tư duy: Sơ đồ tư duy được tôi vận dụng vào kiểm tra bài cũ, dạy học kiến thức mới hoặc hệ thống hóa kiến thức một chủ đê, một bài, một chương giúp học sinh ghi nhớ, ôn tập, liên kết các mạch kiến thức đã học. a. Vận dụng khi kiểm tra bài cũ: Khi sử dụng sơ đồ tư duy để kiểm tra bài cũ sẽ giúp giáo viên kiểm tra được phần nhớ lẫn phần hiểu của học sinh. Các sơ đồ tư duy ở đây tôi thường sử dụng là ở dạng thiếu thông tin, yêu cầu học sinh điền và rút ra nhận xét về mối quan hệ giữa các nhánh thông tin với từ khóa trung tâm hoặc gọi học sinh lên bảng vẽ (báo cáo). Tùy theo từng lớp, từng đối tượng học sinh mà giáo viên có thể đưa ra yêu cầu khác nhau. Tôi thấy như vậy dễ kiểm tra và học sinh cũng hào hứng, tích cực xung phong trả lời làm cho không khí lớp học trở lên vui vẻ, học sinh tiếp thu bài tốt. Sau khi hoàn thành, giáo viên có thể tổ chức cho các em đọc lại kiến thức trên sơ đồ tư duy đó để khắc sâu hơn kiến thức bài học. Ví dụ 1: Kiểm tra kiến thức về Cách nối các vế câu ghép (Tiếng Việt 5 tập 2 trang 64). Giáo viên sử dụng sơ đồ tư duy dạng thiếu thông tin, yêu cầu học sinh điền, bổ sung cho hoàn thiện sơ đồ. (phụ lục 6) Ví dụ 2: Kiểm tra bài cũ kiến thức về Chu vi, diện tích hình tròn (Toán 5 trang 100) Giáo viên yêu cầu học sinh lên bảng vẽ sơ đồ tư duy đã chuẩn bị trước. (phụ lục 7) b. Lập sơ đồ tư duy trong việc dạy kiến thức mới: Giáo viên đưa ra một từ khóa để nêu kiến thức của bài mới rồi yêu cầu học sinh vẽ sơ đồ tư duy bằng cách đặt câu hỏi, gợi ý cho các em để các em tìm ra các từ liên quan đến từ khóa đó và hoàn thiện sơ đồ tư duy. Qua đó học sinh sẽ nắm được
  13. + Bước 1: Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc nội dung sách giáo khoa, đưa ra tình huống có vấn đề trước khi cho học sinh đọc. + Bước 2: Giáo viên và học sinh tìm hiểu, phân tích đặt tên các chủ đề (hoặc giáo viên chọn trước tên chủ đề cần nghiên cứu cho học sinh thiết lập sơ đồ tư duy với các từ khóa đó). + Bước 3: Giáo viên hướng dẫn học sinh vẽ sơ đồ tư duy theo nội dung chính thông qua các câu hỏi. + Bước 4: Học sinh vẽ, khai triển các nhánh của sơ đồ tư duy theo ý của học sinh. (có thể tất cả các nhóm cùng chung nội dung hoặc mỗi nhóm có nội dung khác nhau tùy theo mục tiêu, nội dung bài và đối tượng học sinh). + Bước 5: Học sinh báo cáo, trình bày sơ đồ tư duy của nhóm mình. + Bước 6: Giáo viên tổ chức cho học sinh nhận xét, đánh giá và bổ sung thêm cho bạn. + Bước 7: Giáo viên kết luận, chốt nội dung chính cần ghi nhớ. (có thể đưa ra sơ đồ tư duy đã chuẩn bị, gọi học sinh đọc lại). Ở nội dung này, nếu đối tượng học sinh chưa nắm được cấu trúc cũng như cách vẽ sơ đồ tư duy, giáo viên cũng có thể đưa ra sơ đồ tư duy theo mục tiêu bài học nhưng còn thiếu nhánh, thiếu nội dung. Sau đó, giáo viên giao việc cho học sinh dưới dạng phiếu học tập dể học sinh vẽ hoặc vẽ tiếp. Từ đó, các em rút ra kiến thức bài học cần ghi nhớ. Ví dụ 1: Khi dạy bài Diện tích xung quanh và diện tích toàn phần của hình lập phương (Toán 5 trang 11) + Bước 1: Giáo viên chia nhóm 4, phát cho mỗi nhóm 1 hình lập phương bằng giấy có cùng kích thước, nêu vấn đề bằng cách đưa ra câu hỏi: Làm thế nào chúng ta tính được diện tích xung quanh và diện tích toàn phần của hình lập phương mà em đang có ? + Bước 2: Học sinh thảo luận nhóm tìm cách tính toán. Trong bước này, giáo viên quan sát quá trình các nhóm thảo luận, nếu nhóm nào gặp khó khăn có thể giúp đỡ bằng cách đưa
  14. lập phương có mấy mặt xung quanh? Hình lập phương có mấy mặt đáy? Các mặt của hình lập phương có đặc điểm gì? + Bước 3: Giáo viên hướng dẫn học sinh vẽ sơ đồ tư duy với từ trung tâm Hình lập phương, nhánh 1 với nội dung là Diện tích xung quanh và diện tích toàn phần. + Bước 4: Học sinh vẽ, triển khai các nhánh của sơ đồ tư duy theo ý của nhóm mình. + Bước 5: Học sinh báo cáo, trình bày sơ đồ tư duy của nhóm mình. + Bước 6: Nhóm khác nhận xét, đánh giá và bổ sung thêm cho nhóm bạn. + Bước 7: Giáo viên chốt lại nội dung chính cần ghi nhớ: Muốn tính diện tích xung quanh của hình lập phương ta lấy diện tích 1 mặt nhân với 4; muốn tính diện tích toàn phần của hình lập phương ta lấy diện tích 1 mặt nhân với 6. Giáo viên nhận xét, tuyên dương và khen ngợi nhóm hoàn thành tốt. (phụ lục 8) Ví dụ 2: Khi dạy bài tập đọc Sắc màu em yêu (Tiếng Việt 5 tập 1 trang 19) ở câu hỏi 2 phần tìm hiểu bài có nội dung: Mỗi sắc màu gợi ra những hình ảnh nào? Tôi yêu cầu học sinh thảo luận nhóm 4 để vẽ sơ đồ tư duy, sau đó đại diện các nhóm trình bày trước lớp. Các nhóm còn lại nhận xét để hoàn chỉnh sơ đồ. Giáo viên nhận xét, khen ngợi. (phụ lục 9) Ví dụ 3: Bài Vệ sinh ở tuổi dậy thì (Khoa học 5 trang 18) (phụ lục 10) Sau tiết học, những sơ đồ tư duy mà các nhóm hay cá nhân đã tự lập được tôi sẽ cho các em trưng bày ở bảng phụ được gắn ở góc học tập của lớp. Điều này khiến học sinh rất thích thú vì các em sẽ nhớ lâu kiến thức và tự hào về sản phẩm của mình được trưng bày ở lớp. Ngoài ra, nếu các em phát hiện thêm được kiến thức hay, mới liên quan đến từ khóa như thông tin, tranh, ảnh, các em có thể gắn thêm vào sơ đồ tư duy thuyết phục, đa dạng hơn. (phụ lục 11) c. Lập sơ đồ tư duy trong việc dạy củng cố, ôn tập kiến thức:
  15. trong dạy kiến thức mới mà tôi đã nêu ở trên nhưng thời gian sẽ nhiều hơn. Sau mỗi bài học, mỗi chương, giáo viên hướng dẫn, gợi ý để học sinh tự hệ thống kiến thức trọng tâm, kiến thức cần nhớ bằng cách vẽ sơ đồ tư duy. Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh sưu tầm theo mỗi bài học vẽ sơ đồ trên một trang giấy rồi kẹp lại thành tập. Việc làm này sẽ giúp các em dễ ôn tập, xem lại kiến thức khi cần một cách nhanh chóng, dễ dàng. Ví dụ 1: Sơ đồ tư duy hệ thống hóa kiến thức bài Ôn tập về từ loại (Tiếng Việt 5 tập 1 trang 142) (phụ lục 12) Khi nhìn vào sơ đồ tư duy, học sinh dễ dàng nhận thấy trong nhóm từ loại có 5 từ loại đó là: danh từ, động từ, tính từ, đại từ và quan hệ từ. Các em nhìn rõ được đặc điểm cũng như nêu ra được 1 số ví dụ của từng từ loại. Như vậy, chỉ với một sơ đồ tư duy nhỏ đã giúp học sinh củng cố được kiến thức của nhiều bài đã học. Rõ ràng, sơ đồ tư duy thể hiện cách ghi chép ngắn gọn, khoa học mà hiệu quả rất cao. Ví dụ 2: Sơ đồ tư duy bài Ôn tập về tính chu vi, diện tích một số hình (Toán 5 trang 166) Giáo viên chia nhóm, giao nhiệm vụ cho các nhóm vẽ sơ đồ tư duy ghi lại; công thức tính chu vi, diện tích một số hình. (phụ lục 13) Ví dụ 3: Sơ đồ tư duy bài Ôn tập (Địa lý 5 trang 115) Giáo viên chia nhóm, giao nhiệm vụ cho các nhóm vẽ sơ đồ tư duy ghi lại: vị trí, diện tích, khí hậu, địa hình, dân cư của Châu Á và Châu Âu. (phụ lục 14) Như vậy, sơ đồ tư duy là một phương tiện vô cùng hữu ích để học sinh sử dụng trong quá trình học tập. Nó là một phương tiện có thể được sử dụng trong nhiều thời điểm, trong nhiều hoạt động. Học sinh có thể sử dụng sơ đồ tư duy khi muốn kiểm tra lại kiến thức; khi đã hình thành kiến thức và khi tổng hợp lại kiến thức của một hoạt động, một bài học hay một chủ đề trong các môn học. Từ đó, học sinh sẽ thể hiện được những kiến thức, hiểu biết của mình. Các em sẽ phát huy được những năng lực cần thiết như : năng lực tự học, giao tiếp, hợp tác, giải quyết vấn đề và sáng tạo, quản lí thời gian, thẩm mĩ, khoa học Cùng với đó, những phẩm chất như: chăm học -
  16. 2.6.4. Hướng dẫn học sinh học tập độc lập, sử dụng sơ đồ tư duy để hỗ trợ học tập, phát huy tính tích cực, sáng tạo và phát triển năng lực tự học. Học sinh có thể tự sử dụng sơ đồ tư duy để hỗ trợ việc tự học ở nhà, tìm hiểu trước bài mới, củng cố, ôn tập kiến thức bằng cách vẽ sơ đồ tư duy trên giấy, bìa qua đó củng cố, khắc sâu kiến thức, kĩ năng ghi chép. Sơ đồ tư duy tối đa hóa được nguồn lực cá nhân, đặc biệt hữu ích trong các hoạt động nhóm. Mỗi thành viên đều rèn luyện được khả năng tư duy, kĩ năng thuyết trình cho bạn, cho cô, cho phụ huynh nghe và làm việc khoa học ở trường hay ở nhà. Chỉ cần nhìn vào sơ đồ tư duy, bất kì thành viên nào cũng có thể thuyết trình và nắm được nội dung kiến thức được trình bày. Hướng cho học sinh có thói quen lập sơ đồ tư duy trước hoặc sau khi học một bài, một chủ đề, một chương hay khi các em tự ôn lại kiến thức để ôn tập ngoài giờ lên lớp sau đó có thể báo cáo, chia sẻ với giáo viên. Học sinh có thể sử dụng sơ đồ tư duy để học tập trên tất cả các môn, tùy theo đặc điểm, nội dung kiến thức có thể áp dụng. (phụ lục 15) 2.6.5. Dạy học tích hợp môn Mỹ thuật trong dạy sơ đồ tư duy phát huy tính sáng tạo và thẩm mĩ cho học sinh. Khi áp dụng dạy học bằng sơ đồ tư duy, tôi tự lập kế hoạch cho từng tiết dạy cho phù hợp với những đối tượng học sinh. Nếu không sử dụng phần mềm, giáo viên có thể linh động sử dụng hình vẽ tay với màu sắc, hình ảnh hài hòa, từ ngữ diễn đạt khác nhau nhằm giúp học sinh tiếp cận vận dụng khi vẽ sơ đồ tư duy. Từ bước làm quen và tập đọc hiểu sơ đồ tư duy giáo viên cần hướng dẫn học sinh vận dụng một số kiến thức, kĩ năng trong môn Mỹ thuật để vẽ sơ đồ tư duy rõ nét, dễ hiểu và dễ học nhất. Sơ đồ tư duy cần phải có một hình thức bắt mắt thì người học nhìn vào mới có cảm hứng học tập và dễ dàng ôn tập. Chính vì thế, sử dụng màu sắc trong sơ đồ tư duy là điều cực kì quan trọng mà cả giáo viên và học sinh cần lưu ý. Cần tránh vẽ một sơ đồ tư duy đơn điệu vì sẽ cực kì nhàm chán và rối, khó
  17. một sơ đồ tư duy, từ ngữ và hình ảnh trung tâm được biễu diễn trên nền màu rõ nét nhất, hình ảnh đặc sắc nhất để làm nổi bật nội dung chính, giúp học sinh dễ dàng nắm bắt chủ điểm của bài học hay của chủ đề nào đó. Ở nhánh cấp 1, cấp 2 hay cấp 3, các từ ngữ và hình ảnh được biểu diễn trên nền màu rõ ràng, dễ nhìn, dễ phân biệt. Giữa các nhánh gần nhau sẽ sử dụng tông màu dễ làm nổi bật nhau (ví dụ: màu cam - màu xanh da trời, màu đỏ - màu xanh lá, màu vảng - màu tím, màu đỏ - màu vàng - màu xanh da trời, màu cam - màu tím - màu xanh lá, ) để học sinh dễ phân biệt các nhóm kiến thức. Ở bước hướng dẫn này, giáo viên cần làm rõ ngay trong hoạt động cho học sinh làm quen và đọc hiểu sơ đồ tư duy. Giáo viên có thể sử dụng câu hỏi: “Các em thấy hình ảnh nào nổi bật nhất?”, “Vì sao?”, “Các em thấy màu sắc ở nhánh quang cảnh có bị lẫn màu sắc ở nhánh diễn biến không?” Tùy vào mắt thẩm mĩ và sở thích của mỗi người, các em sẽ tự chọn những màu sắc yêu thích. Tuy nhiên, các em cũng không quá lạm dụng màu sắc, không nên biến sơ đồ tư duy của mình trở nên quá màu mè, mà chỉ nên giới hạn trong khoảng 5 - 6 màu. Bên cạnh đó, cấu trúc cho một sơ đồ tư duy cũng vô cùng quan trọng và cần thiết. Nếu học sinh trình bày sơ đồ tư duy quá nhỏ trên phiếu bài tập sẽ rất khó tìm kiếm đầy đủ thông tin. Nếu học sinh lại trình bày sơ đồ tư duy quá to trên phiếu bài tập sẽ làm cho các nội dung thông tin giữa các nhánh dễ nhầm lẫn với nhau, khó tìm được mối quan hệ giữa các nhánh thông tin cũng như không thể bổ sung thêm nội dung nếu sau cần bổ sung. Vì thế, với mỗi nội dung kiến thức hay một nội dung chủ đề sẽ có các hình thức trình bày sơ đồ tư duy khác nhau. Chúng ta cần chuẩn bị đầy đủ các mạch nội dung tương ứng với các nhánh để lựa chọn, phác thảo trước sơ đồ tư duy rồi mới trình bày. Những nhánh nào có chứa nhiều nội dung hay có nhiều nhánh cấp nhỏ hơn sẽ cần trình bày ở phần rộng hơn. Còn những nhánh có ít nội dung hay có ít nhánh cấp nhỏ hơn sẽ trình bày ở phần nhỏ hơn. Đặc biệt, để phát huy tính sáng tạo cho học sinh, giáo viên có thể dẫn dắt, hướng dẫn và gợi ý cho học sinh trình bày sơ đồ tư duy trên nhiều hình thức khác nhau. Trên cùng một nội dung kiến thức hay một chủ đề ôn tập học sinh có thể trình bày trên nhiều hình thức sơ đồ tư duy tùy theo sở thích, năng khiếu