Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp đỡ học sinh khắc phục khó khăn khi giải các bài toán có lời văn ở Lớp 5

doc 13 trang Tú Uyên 26/02/2025 840
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp đỡ học sinh khắc phục khó khăn khi giải các bài toán có lời văn ở Lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_do_hoc_sinh_khac.doc

Nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp đỡ học sinh khắc phục khó khăn khi giải các bài toán có lời văn ở Lớp 5

  1. 1.Tên sáng kiến: “Một số biện pháp giúp đỡ học sinh khắc phục khó khăn khi giải các bài toán có lời văn ở lớp 5.” 2.Lĩnh vực áp dụng sáng kiến : lớp 5a3 3.Thời gian áp dụng sáng kiến: Từ ngày 20 tháng 9 năm 2020 đến ngày 1 tháng 5 năm 2021 4.Tác giả : Vũ Thị Hiện Năm sinh: 01/03/1975 Nơi thường trú : Nghĩa Hồng – Nghĩa Hưng Nam Định. Trình độ chuyên môn: Cao đẳng Chức vụ công tác: Giáo viên. Điện thoại : 0359291093 Tỉ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến :100% 5.Đồng tác giả (nếu có): Họ và tên: Năm sinh Nơi thường trú : Trình độ chuyên môn: Chức vụ công tác: Điện thoại : Tỉ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến : 6.Đơn vị áp dụng sáng kiến: Tên đơn vị: Trường Tiểu học xã Nghĩa Hồng Địa chỉ: Nghĩa Hồng – Nghĩa Hưng – Nam Định. Điện thoại :0915868993
  2. BÁO CÁO SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 1. Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến - Ngay vào đầu năm học khi nhận lớp cho học sinh làm bài kiểm tra. Tôi đã nhận thấy lớp 5a3 do tôi chủ nhiệm các em rất yếu về toán có lời văn . Các em không phân biệt được các dạng toám mà các em đã học. Đối với các bài toán hình học các em lại không nhớ công thức để áp dụng. - Mà bậc Tiểu học là bậc học tạo nền tảng vững chắc cho các em vào đời.Toán cấp học là một mảng kiến thức xuyên suốt quá trình học toán của học sinh. Nó không chỉ truyền thụ và rèn luyện kỹ năng kỹ xảo tính toán để giúp các em học tốt môn khác mà còn giúp các em rèn luyện trí thông minh, óc tư duy sáng tạo, khả năng tư duy lô gic, làm việc khoa học. Vì vậy chúng ta cần phải quan tâm tới việc dạy toán ở Tiểu học mói chung và kĩ năng giải toán có lời văn nói riêng. - Trong chương trình toán ở Tiểu học cũng như chương trình toán lớp 5 gồm 4 mạch kiến thức cơ bản: Trong đó giải các bài toán có lời văn có vị trí đặc biệt quan trọng. Việc dạy học giải toán giúp học sinh có điều kiện rèn luyện và phát triển năng lực tư duy, phương pháp suy luận và những phẩm chất cần thiết của con người mới. - Giải toán là một mạch kiến thức cơ bản của toán học nó không chỉ giúp cho học sinh thực hành vận dụng những kiến thức đã học mà còn rèn cho học sinh khả năng diễn đạt ngôn ngữ qua việc trình bày lời giải một cách rõ ràng, chính xác, khoa học, thông qua việc giải toán có lời văn học sinh được giáo dục nhiều mặt trong đó có ý thức đạo đức. Xuất phát từ yêu cầu quan trọng của môn học và tình hình thực tế việc dạy và học Toán như trên, tôi xây dựng kế hoạch và đưa ra một số biện pháp : Rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5
  3. II.Mô tả giải pháp 1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến - Tôi nhận thấy học sinh yếu toán có lời văn là do: + Học sinh chưa đọc kỹ đề bài, xác định yêu cầu bài toán chưa đúng, không biết bài toán thuộc loại toán nào dẫn đến việc áp dụng công thức, quy tắc nhầm, lẫn lộn với nhau, kết quả giải toán bị sai. +Học sinh không thuộc công thức. + Học sinh yếu kém nhận diện hình chậm, không hiểu thuật ngữ toán học, không biết bài đã cho dữ kiện nào để áp dụng vào giải toán. Không nắm được các thao tác giải toán, không biết tư duy bài toán (bằng lời hoặc hình vẽ) nên trình bày sai lời giải, sai bài toán, đáp số sai, thiếu. + Học sinh yếu còn quên không đưa về cùng đơn vị đo. + Ngoài ra còn một số bài toán đòi hỏi học sinh phải tư duy tìm các công thức đã cho để giải. Khả năng giải bài toán mang tính chất tồng hợp kiến thức của các em còn kém, các em quên mất kiến thức cũ liên quan nên giải bài toán bị sai.- Dạy học giải toán ở Tiểu học nhằm giúp học sinh biết cách vận dụng những kiến thức về toán và các tình huống thực tiễn đa dạng, phong phú những vấn đề thường gặp trong đời sống. + Giáo viên chưa tạo được hứng thú cho HS thích giải toán có lời văn. Tất cả các lí do trên đã thôi thúc tôi phải có kế hoạch cụ thể để giúp các em giải toán có lời văn được tốt. 2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến: - Ngay từ đấu năm học, tôi đã nghiên cứu, lập ra một kế hoạch cụ thể, sát thực căn cứ vào nhiệm vụ năm học cũng như thực tiễn học sinh trong lớp tôi chủ nhiệm để lập ra kế hoạch cụ thể. - Trước hết tôi cho học sinh thi khảo sát chất lượng đầu năm
  4. Tổng số học Học sinh yếu về toán Tỉ lệ Học sinh nắm được Ti lệ. sinh lớp 5a3 có lời văn cách giải toán có lời văn 29 em 19 em 66% 10 em 34% - Tiếp theo tôi thành lập câu lạc bộ “ Toán tuổi thơ “ do chính tôi phụ trách. Trong tiết sinh hoạt lớp của tuần 2 tôi đã phát động phong trào giải toán có lời văn. Tôi tạo ra sân chơi vui vẻ để các em hào hứng tham gia. Đầu tiên là những bài toán đơn giải đố vui sau đó tôi nâng cao dần dần. Tôi tạo ra đôi bạn giúp nhau tiến bộ. Bạn giỏi giúp bạn yếu cùng vượt khó. - Đưa ra một số biện pháp cụ thể giúp học sinh giải tốt các bài toán có lời văn. 2.1. Bước đầu giúp học sinh xác định được yêu đầu bài: Việc dạy học gải toán ở tiểu học là giúp học sinh tự tìm hiểu được mối quan hệ giữa cái đã cho và cái phải tìm, mô tả quan hệ đó bằng cấu trúc phép tính cụ thể, thực hiện phép tính, trình bày lời giải bài toán. Giáo viên cần phải tổ chức cho học sinh nắm vững khái niệm toán học, cấu trúc phép tính, các thuật ngữ Tổ chức cho học sinh thực hiện các bước giải toán. 2.2. Trang bị cho các em công thức, quy tắc, kĩ năng giải toán: Đây là vấn đề vô cùng quan trọng trong việc truyền tải kiến thức cho học sinh, thay thế cho việc giáo viên áp đặt kiến thức cho học sinh buộc học sinh phải thuộc lòng những điều giáo viên thuyết trình (phương pháp dạy học truyền thống) bằng việc giáo viên là người dẫn dắt các em tự mình tìm tòi khám phá kiến thức mới (phương pháp dạy học tích cực). Trong quá trình giảng dạy giáo viên cần vận dụng triệt để biện pháp này vì học
  5. sinh muốn giải được các bài toán thì cần phải được trang bị đầy đủ những kiến thức có liên quan đến việc giải toán mà những kiến thức này chủ yếu được cung cấp qua các tiết lý thuyết. Do vậy dưới sự dẫn dắt của giáo viên, học sinh cần tìm ra được cách giải bài toán và cần phải được chính xác hóa nhờ sự giúp đỡ của giáo viên. Qua quá trình tự tìm tòi, khám phá kiến thức mới dựa trên những cái đã biết giúp các em hiểu sâu hơn, nhớ lâu kiến thức ấy hơn nếu như tự mình tìm ra kiến thức ấy Học sinh cần nắm chắc quy tắc, công thức tính, các bước tính của một phép tính từ đó mới rèn luyện được kỹ năng tính toán. Đối với loại toán có nội dung hình học thì khả năng nhận biết các đặc điểm của một hình vẽ là rất quan trọng. Ví dụ: Khi dạy về “Diện tích hình tam giác” giáo viên cần cho học sinh xác định đâu là đáy và đâu là chiều cao tương ứng.Nhắc lại công thức tính diện tích hình tam giác + Khả năng cắt ghép hình thang thành hình tam giác . + Giáo viên cần có biện pháp giúp học sinh nhớ rõ các ký hiệu hình vẽ. Chẳng hạn, đâu là đáy,đâu là chiều cao tương ứng. Từ đó học sinh biết vận dụng vào giải các bài toán áp dụng trực tiếp quy tắc đã xây dựng để vận dụng tính. Bài tập VD: Cho hình tam giác có cạnh đáy là 8cm,chiều cao tương ứng là 5cm Tính diện tích hình tam giác đó ? Với bài tập này học sinh chỉ cần vận dụng đúng quy tắc, công thức đã được trang bị là giải được ngay. Cũng có những bài toán đòi hỏi học sinh phải có khả năng tư duy thì mới giải được. Do vậy, giáo viên cần rèn cho các em kỹ năng này.
  6. VD: Bài toán: Cho hình tam giác có diện tích là 20 cm2 ,cạnh dáy là 5cm Tính chiều cao hình tam giác đó. Học sinh phải biết dựa vào công thức chính rút ra công thức phụ. - Khi giải bài toán không có cùng đơn vị đo thì phải biết đổi ra cùng một đơn vị đo. VD: Số đo cạnh theo mm, số đo diện tích theo cm 2. Vậy phải đổi số đo cạnh ra cm và ngược lại. - Giáo viên cần lưu ý cho học sinh: + Với số đo diện tích các kích thước là cm thì diện tích là cm2 + Với hình hộp chữ nhật và hình lập phương khi tính thể tích phải là cm3. *Với bài toán giải bằng hai phương pháp và toán chuyển động. Giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh : -Bước 1: Xác định bài cho biết gì,tìm gì?. -Bước 2: .Các yếu tố đã cùng đơn vị đo chưa. - Bước 3:Nhớ công thức để vận dụng. -Bước 4: Chú ý câu trả lời, tên đơn vị đo. *Điều quan trọng chủ yếu khi dạy giải toán là dạy học sinh biết cách giải bài toán (phương pháp giải toán). Giáo viên không được làm thay, không được áp đặt cách giải cần phải tạo cho học sinh tự tìm ra cách giải bài toán tập trung vào 3 bước: + Tính toán để biết bài toán cho gì, hỏi gì, yêu cầu gì? + Tìm cách giải thông qua việc thiết lập mối quan hệ giữa các dữ kiện của
  7. bài toán (giả thiết) với yêu cầu của bài (kết luận) để tìm ra phép tính tương ứng. + Trình bày bài giải, viết câu trả lời , phép tính và đáp số. 2.3. Biện pháp hình thành và rèn luyện kĩ năng giải toán có lời văn. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giảng dạy của mình, tôi nhận thấy rèn kĩ năng giải toán cho học sinh là một biện pháp không thể thiếu trong quá trình dạy học. Do đặc điểm của môn toán ở tiểu học được cấu tạo theo kiểu đồng tâm các nội dung được củng cố thường xuyên và được phát triển dần từ đơn giản đến phức tạp, từ dễ đến khó. Sau khi đã lĩnh hội kiến thức, kĩ năng toán học, để định hình vững chắc kiến thức ấy, học sinh cần rèn luyện vận dụng qua các dạng bài tập khác nhau, có yêu cầu cao hơn. Để giải được các bài tập ấy, giáo viên cần hướng dẫn các em tư duy từ cái đã biết để tìm cái chưa biết, rèn cho học sinh óc suy luận, phán đoán và kỹ năng. - Phân tích đề bài toán: Là một kỹ năng quan trọng nhất Qua hàng loạt câu hỏi đặt ra để phân tích yêu cầu bài toán, trả lời được các câu hỏi đó, học sinh sẽ làm được bài tập dễ dàng. Với các kỹ năng đã có của học sinh, giáo viên là người giúp học sinh rèn luyện và phát huy những kỹ năng ấy, cần cho học sinh nắm rõ thuật ngữ toán học Biết phân tích và tóm tắt bài toán bằng cách ghi các dữ kiện đã cho và câu hỏi của bài toán dưới dạng ngắn gọn nhất. Qua tóm tắt học sinh có thể nêu lại được bài toán, từ đó lập kế hoạch giải. Như vậy với một số câu hỏi gợi mở mà giáo viên đưa ra, học sinh có thể tìm cách giải bài toán về những kiến thức đã học để có thể áp dụng được công thức tính.
  8. Nhưng nếu là bài toán (Lớp 5a3 có số học sinh nữ nhiều hơn nam là 5em. Tính số học sinh mỗi loại biết số học sinh nữ bằng 2/3 nam) Đây là dạng hiệu tỉ Để giải được bài toán này học sinh cần phải đọc kỹ bài toán phân tích tóm tắt bài toán, xem bài toán cho biết gì ? Bài toán yêu cầu những gì ? Muốn giải được tốt bài toán này yêu cầu học sinh phải tìm hiểu, phân tích kỹ đầu bài (biết tóm tắt và trình bày bài toán thông qua tóm tắt) lập được kế hoạch bài giải bài toán và kỹ năng vận dụng sáng tạo những kiến thức đã học vào giải các bài toán ở mức độ phức tạp hơn. Do vậy giáo viên nhất thiết phải sử dụng biện pháp này nhằm rèn cho học sinh những kỹ năng trên giúp các em có khả năng giải mọi dạng toán khác nhau. Vận dụng kiến thức tổng hợp để giải toán xác lập mối quan hệ giữa các yếu tố và tìm đúng phép tính thích hợp. 2.4. Biện pháp hướng dẫn học sinh trình bày bài giải Sau khi đã có những kỹ năng phân tích bài toán và lập được kế hoạch giải cho bài toán thì việc thực hiện cách giải và trình bày bài giải cũng là yếu tố quan trọng. Vậy làm như thế nào để câu trả lời của bài toán không bị sai, phép tính chính xác, ghi đáp số với kết quả phép tính có danh số kèm theo. Giáo viên cần hướng dẫn các em tìm ra các câu lời giải khác nhau nhưng biết trả lời ngắn, gọn mà đủ ý. Bài toán hỏi gì thì trả lời ý đó nghĩa là biết dựa vào câu hỏi của bài toán để trả lời. *Khi trình bày bài giải giáo viên nên khuyến khích các em tìm ra nhiều cách giải. Sau đó hướng dẫn các em vào cách giải, cách trình bày bài giải ngắn gọn, chính xác, dễ hiểu nhất, lời giải hợp lý nhất để tránh cho học sinh yếu trả lời bài toán sai thì giáo viên phải hướng dẫn học sinh đọc kỹ đề bài để biết bài toán cho gì ? Bài toán yêu cầu làm như thế nào
  9. dựa vào câu hỏi của bài toán để ghi câu trả lời cho đúng thực hiện phép tính ghi danh số kèm theo chính xác để đáp số bài toán không bị sai theo. *Với bài toán trong khi giải cần đổi đơn vị đo thì giáo viên cần hướng dẫn và yêu cầu học sinh nhắc lại cách đổi đã học về đại lượng ấy. Qua đó củng cố những kiến thức có liên quan đến giải toán lời văn có ý nghĩa thực tiễn. Từ đó các em sẽ trình bày đúng bài giải. Chẳng hạn bài toán 1 trang 153, học sinh cần phải nhận xét: Xét đường cao và cạnh đáy của hình tam giác không cùng số đo nên phải đổi ra cùng Bài giải 4 dm = 40 cm Diện tích hình tam giác là: 40 x 8 : 2 = 320 (cm2) Đáp số: 520 cm2 Khi học giải toán xong thì giáo viên phải cho học sinh kiểm tra cách giải và kết quả là yêu cầu không thể thiếu khi giải toán và trở thành thói quen đối với học sinh ngay từ tiểu học. Việc này nhằm phân tích (thử lại) cách giải hay đúng sai Khi đã có những kỹ năng giải toán tốt giáo viên cần dạy cho học sinh những thủ thuật giải toán trong từng khâu, từng bước giải. 2.5. Đưa ra các bài toán đố gắn liền với thực tế : Ví dụ đưa ra các bài toán tính diện tích xung quanh, diện tích toàn phần, thể tích lớp học. bể nước, bể bơi hay tính số tiền công của người thợ xây, tính quãng đường từ nhà đến trường, từ tỉnh này đến tỉnh khác, vận tốc người đi bộ,đi xe đạp, xe máy, ô tô. những bài toán gắn với thực tế giúp các em dễ hiểu, dễ nhớ.
  10. *Ngoài ra những biện pháp đã nêu ở trên để có kết quả học tập tốt thì mỗi giáo viên cần có tâm huyết với nghề, có nghệ thuật sư phạm, có trách nhiệm trước học sinh. Đặc biệt là phải biết vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học tích cực, phải luôn tự bồi dưỡng trau dồi nâng cao trình độ nhận thức cho bản thân. Giáo viên cần có năng lực tổ chức các hoạt động dạy học phong phú nhằm thu hút học sinh tham gia tốt vào hoạt động học và rèn luyện cho học sinh năng lực khái quát hóa trong giải toán. III.Hiệu quả do sáng kiến đem lại: 1.Hiệu quả kinh tế 2.Hiệu quả về mặt xã hội: Với những biện pháp trên tôi đã thu được kết quả nhất định, học sinh giải các bài toán có nội dung hình học và dạng toán có lời văn ngày càng tiến bộ. Học sinh có tư duy sáng tạo, tìm hiểu đúng yêu cầu của đề bài, trình bày bài giải đúng theo yêu cầu của bài toán. Kết quả đạt được cuối năm học 2020 - 2021 là: Tổng số học Học sinh yếu về toán Tỉ lệ Học sinh nắm được Ti lệ. sinh lớp 5a3 có lời văn cách giải toán có lời văn 29 em 4 em 14% 25 em 86% Như vậy lớp tôi đã có nhiều tiến bộ trong việc giải các bài toán có lời văn. Tuy kết quả này chưa thực sự đã là cao xong bản thân tôi cũng thấy vui và tự tin vào việc làm của mình về sáng kiến kinh nghiệm mà mình đã thực hiện. IV. Cam kết không sao chép hoặc vi phạm bản quyền.
  11. Trên đây là sáng kiến” Một số biện pháp giúp đỡ học sinh khắc phục khó khăn khi giải các bài toán có lời văn ở lớp 5.” của bản thân tôi đã áp dụng tại lớp 5a3 của trường tiểu học xã Nghĩa Hồng.Tôi xin cam đoan không sao chép của cá nhân hay tập thể nào khác. TÁC GIẢ SÁNG KIẾN VŨ THỊ HIỆN
  12. CƠ QUAN ĐƠN VỊ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN ( Khối phòng GDDTđối với GV MN,TH,THCS) PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ( Xác nhận đánh giá và xếp loại) ( LĐ phòng ký tên, đóng dấu)
  13. CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do- Hạnh phúc ĐƠN YÊU CẦU CỘNG NHẬN SÁNG KIẾN Kính gửi : Phòng GD&ĐT Nghĩa Hưng Tôi : Vũ Thị Hiện -Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến: “Một số biện pháp giúp đỡ học sinh khắc phục khó khăn khi giải các bài toán có lời văn ở lớp 5.” - Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo viên - Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: Từ ngày 20 tháng 9 năm 2020 đến ngày 1 tháng 5 năm 2021 - Mô tả bản chất của sáng kiến : Giáo viên hướng dẫn các hoạt động học toán của CLB cũng như hoạt độn học ở lớp. - Những điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: Kế hoạch năm học, tài liệu tham khảo,của bạn bè đồng nghiệp. - Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể tiếp thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả: Giúp giáo viên có được phương pháp giúp đỡ học sinh khắc phục khó khăn khi giải các bài toán có lời văn ở lớp 5. Tôi xin cam đoan mọi thông tin trong đơn là trung thực, đúng sự thật và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật. Nghĩa Hồng, ngày 18 tháng 5 năm 2021 Người nộp đơn Vũ Thị Hiện